Bạn đang xem bài viết Soạn Bài Cố Hương Soạn Văn 9 Tập 1 Bài 16 (Trang 207) được cập nhật mới nhất tháng 10 năm 2023 trên website Gqut.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Soạn bài Cố hương
Soạn bài Cố hương – Mẫu 1 Soạn văn Cố hương chi tiếtI. Tác giả
– Lỗ Tấn (1881 – 1936) là nhà văn nổi tiếng của Trung Quốc, lúc nhỏ tên là Chu Trương Thọ, tên chữ là Dự Tài, sau đổi tên là Chu Thụ Nhân.
– Quê ở phủ Thiệu Hưng, tỉnh Triết Giang (Trung Quốc).
– Ông sinh trưởng trong một gia đình quan lại sa sút, mẹ xuất thân nông dân nên từ nhỏ ông đã có nhiều cơ hội tiếp xúc với đời sống nông thôn.
– Lúc đầu, ông nghĩ rằng sức mạnh của khoa học, kĩ thuật có thể cứu được đất nước nên ông lần lượt theo học ngành hàng hải, địa chất rồi y học.
– Nhưng rồi nhận ra khoa học không thể làm thay đổi được xã hội một cách triệt để, ông quyết định từ bỏ ngành y, chuyển sang hoạt động văn học vì nghĩ rằng văn học là vũ khí lợi hại để “biến đổi tinh thần” dân chúng đang ở tình trạng “ngu muội” và “hèn nhát”.
– Các tác phẩm của ông gồm có: 17 tập tạp văn và hai tập truyện ngắn “Gào thét” (1923) và “Bàng hoàng” (1926).
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ
– “Cố hương” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của tập Gào thét .
– Đây là một truyện ngắn có tính chất hồi ký.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
Phần 1. Từ đầu đến “đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”. Nhân vật tôi trên đường về thăm quê.
Phần 2. Tiếp theo đến “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Nhân vật tôi trong những ngày ở quê.
Phần 3. Còn lại. Nhân vật tôi khi rời xa quê.
3. Tóm tắt
Nhân vật tôi trong chuyến về thăm quê lần cuối cùng, nhìn thấy làng quê mình trở nên tiêu điều, hoang vắng khác xưa. Những con người xưa cũng đã thay đổi. Đặc biệt làn Nhuận Thổ – người bạn niên thiếu nay đã tàn tạ, thụ động chịu khi phải chịu đựng những bất công của xã hội Trung Quốc đương thời. Rời quê ra đi, trong tâm trạng buồn, tôi suy nghĩ về con đường đi của nông dân, của toàn xã hội để đưa đất nước Trung Hoa tiến lên.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Nhân vật tôi trên đường về thăm quê
– Hoàn cảnh: Thời tiết mùa đông lạnh giá, tôi trở về quê sau hơn 20 năm xa cách – cũng là lần cuối cùng về thăm quê.
– Mục đích: Tù giã quê hương lần cuối, đưa gia đình đến nơi mình đang làm ăn, sinh sống.
– Không gian trên đường trở về quê: trời u ám, gió lạnh lùa vào khoang thuyền, thôn xóm tiêu điều và hoang vắng.
– Cảm xúc của tôi khi nhìn thấy hình ảnh làng quê từ xa: đau lòng, xót xa trước sự thay đổi của làng quê.
2. Nhân vật tôi trong những ngày ở quê
– Khung cảnh làng quê ở cảm nhận của “Tôi”:
Sáng sớm tinh mơ, trên mái ngói, mấy cọng tranh khô phất phơ trước gió.
Các gia đình khác đã dọn đi dần hết, bỏ lại làng quê tiêu điều.
– Con người trong khung cảnh thiên nhiên:
Người mẹ của tôi: mừng rỡ ra đón, nhưng nét mặt vẫn ẩn một nỗi buồn thầm kín – nỗi buồn của một người sắp từ giã nơi mình sinh ra, lớn lên và gắn bó.
Cháu Hoàng: chưa gặp “tôi” bao giờ, chỉ dám đứng từ đằng xa, nhìn nhân vật “tôi” chòng chọc.
Chị Hai Dương: – “nàng Tây Thi đậu phụ” là một người phụ nữ duyên dáng, trước đây được mọi người yêu quý, sau nhiều năm trở thành một người phụ nữ xấu cả ngoại hình lẫn tính cách.
Nhuận Thổ: Không còn là một cậu bé khỏe mạnh, lanh lợi tháo vát, hiểu biết nhiều điều thú vị nữa. Mà trở thành một anh nông dân nghèo khổ, đần độn, mụ mẫm và cam chịu số phận.
Thủy Sinh: là một cậu bé giống hệt bố mình, nhút nhát chỉ biết núp sau lưng bố, so với Nhuận Thổ hai mươi năm về trước “gầy còm, vàng vọt, cổ không đeo vòng bạc”.
3. Nhân vật tôi khi rời xa quê
– Hoàn cảnh: chiều hoàng hôn, những dãy núi xanh hai bên bờ sông đen sẫm lại, nối tiếp nhau chạy lùi về phía sau lái.
– Hành động của nhân vật “tôi”: cùng với cháu Hoàng ngồi tựa của thuyền, cùng nhìn phong cảnh mờ ảo bên ngoài.
– Tâm trạng của nhân vật tôi: buồn bã, cảm thấy lẻ loi và ngột ngạt.
– Suy nghĩ của nhân vật “tôi”:
Nghĩ về tình bạn của cháu Hoàng và Thủy Sinh.
Mong ước chúng không phải sống một cuộc sống khốn khổ mà tàn nhẫn như bao nhiêu người khác.
Theo nghĩa đen: con đường mà cả “tôi” và gia đình đang đi
Theo nghĩa bóng: Con đường cho cả dân tộc Trung Hoa – con đường để xây dựng, đổi mới đất nước.
Tổng kết:
– Nội dung: Đến với truyện ngắn Cố hương, thông qua việc thuật lại chuyến về quê lần cuối cùng của nhân vật “tôi”, những rung cảm của “tôi” trước sự thay đổi của làng quê, đặc biệt là của Nhuận Thổ, Lỗ Tấn đã phê phán xã hội phong kiến, lễ giáo phong kiến, đặt ra vấn đề con đường đi của nông dân và toàn xã hội để mọi người cùng suy ngẫm.
– Nghệ thuật: miêu tả tâm lí nhân vật, cốt truyện độc đáo…
Soạn văn Cố hương ngắn gọnI. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Tìm bố cục của truyện.
Gồm 3 phần:
– Phần 1. Từ đầu đến “đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”. Nhân vật tôi trên đường về thăm quê.
– Phần 2. Tiếp theo đến “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”. Nhân vật tôi trong những ngày ở quê.
– Phần 3. Còn lại. Nhân vật tôi khi rời xa quê.
Câu 2. Trong truyện có mấy nhân vật chính? Nhân vật nào là nhân vật trung tâm? Vì sao?
– Trong truyện có hai nhân vật chính: nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ.
– Nhân vật trung tâm của truyện là “tôi”.
– Nguyên nhân: “tôi” là người kể chuyện, kể lại chuyến thăm quê của mình và qua đó bộc lộ nội dung tư tưởng của câu chuyện; Nhuận Thổ chỉ xuất hiện qua ý nghĩ của “tôi”.
Câu 3. Tác giả đã sử dụng biện pháp nào để làm nổi bật sự thay đổi của Nhuận Thổ? Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn miêu tả sự thay đổi nào khác của con người và cảnh vật ở cố hương? Tác giả đã biểu hiện tình cảm, thái độ như thế nào và đặt ra vấn đề gì qua sự miêu tả đó?
– Biện pháp nghệ thuật để làm nổi bật sự thay đổi của Nhuận Thổ: hồi tưởng và đối chiếu.
– Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn miêu tả sự thay đổi về:
Khung cảnh làng quê: các gia đình khác đã dọn đi dần hết, bỏ lại làng quê tiêu điều.
Con người: chị Hai Dương: – “nàng Tây Thi đậu phụ” là một người phụ nữ duyên dáng, trước đây được mọi người yêu quý, sau nhiều năm trở thành một người phụ nữ xấu cả ngoại hình lẫn tính cách.
– Tình cảm, thái độ của tác giả: đau xót trước sự thay đổi của quê hương, con người và từ đó phê phán xã hội phong kiến mục nát đương thời.
Câu 4. Đọc kĩ ba đoạn văn trong SGK và trả lời câu hỏi:
– Đoạn văn nào chủ yếu dùng phương thức miêu tả và thông qua đó, tác giả muốn thể hiện điều gì?
– Đoạn nào chủ yếu dùng phương thức tự sự? Ngoài tự sự, tác giả còn sử dụng các yếu tố của phương thức biểu đạt nào khác? Nêu hiệu quả của sự kết hợp đó trong việc thể hiện tính cách nhân vật.
– Đoạn nào chủ yếu dùng phương thức nghị luận và thông qua đó, tác giả muốn nói lên điều gì?
Gợi ý:
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức miêu tả: đoạn b. Thông qua đó, tác giả muốn biểu hiện sự thay đổi của Nhuận Thổ sau hơn hai mươi năm xa cách.
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức tự sự: đoạn a. Ngoài tự sự tác giả còn sử dụng hồi tưởng. Thông qua đoạn văn, từ mối quan hệ gắn bó của “tôi” và Nhuận Thổ khi còn thơ ấu để làm nổi bật sự thay đổi trong thái độ của Nhuận Thổ với “tôi” ở hiện tại.
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức nghị luận: c. Thông qua đó, tác giả muốn đặt ra vấn đề về con đường nào cho cả dân tộc Trung Hoa – con đường để xây dựng, đổi mới đất nước.
II. Luyện tập
Nhuận Thổ lúc còn nhỏ (20 năm trước)
Nhuận Thổ lúc đứng tuổi (lúc “tôi” trở về)
Hình dáng
khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng.
cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm.
Động tác
Tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, cố sức đâm theo một con tra,
Môi mấp máy, không ra tiếng, dáng điệu cung kính.
Thái độ đối với “tôi”
Không ngại ngùng, đầy thân thiết
cung kính, lễ phép
Tính cách
Hồn nhiên, lanh lợi
khúm núm, e dè…
Soạn bài Cố hương – Mẫu 2I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Tìm bố cục của truyện.
Phần 1. Từ đầu đến “ đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống ”. Nhân vật tôi trên đường về thăm quê.
Phần 2. Tiếp theo đến “ tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét ”. Nhân vật tôi trong những ngày ở quê.
Phần 3. Còn lại. Nhân vật tôi khi rời xa quê.
Câu 2. Trong truyện có mấy nhân vật chính? Nhân vật nào là nhân vật trung tâm? Vì sao?
Trong truyện có hai nhân vật chính là nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ. Nhân vật trung tâm của truyện là “tôi”. Vì nhân vật “tôi” là người kể chuyện, kể lại chuyến thăm quê của mình và qua đó bộc lộ nội dung tư tưởng của câu chuyện; Nhuận Thổ chỉ xuất hiện qua ý nghĩ của “tôi”.
Câu 3. Tác giả đã sử dụng biện pháp nào để làm nổi bật sự thay đổi của Nhuận Thổ? Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn miêu tả sự thay đổi nào khác của con người và cảnh vật ở cố hương? Tác giả đã biểu hiện tình cảm, thái độ như thế nào và đặt ra vấn đề gì qua sự miêu tả đó?
– Biện pháp nghệ thuật hồi tưởng và đối chiếu.
– Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn miêu tả sự thay đổi về:
Khung cảnh làng quê: các gia đình khác đã dọn đi dần hết, bỏ lại làng quê tiêu điều.
Con người: chị Hai Dương: – “nàng Tây Thi đậu phụ” là một người phụ nữ duyên dáng, trước đây được mọi người yêu quý, sau nhiều năm trở thành một người phụ nữ xấu cả ngoại hình lẫn tính cách.
– Tình cảm, thái độ của tác giả: đau xót trước sự thay đổi của quê hương, con người và từ đó phê phán xã hội phong kiến mục nát đương thời.
Câu 4. Đọc kĩ ba đoạn văn trong SGK và trả lời câu hỏi:
– Đoạn văn nào chủ yếu dùng phương thức miêu tả và thông qua đó, tác giả muốn thể hiện điều gì?
– Đoạn nào chủ yếu dùng phương thức tự sự? Ngoài tự sự, tác giả còn sử dụng các yếu tố của phương thức biểu đạt nào khác? Nêu hiệu quả của sự kết hợp đó trong việc thể hiện tính cách nhân vật.
– Đoạn nào chủ yếu dùng phương thức nghị luận và thông qua đó, tác giả muốn nói lên điều gì?
Gợi ý:
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức miêu tả: đoạn b. Thông qua đó, tác giả muốn biểu hiện sự thay đổi của Nhuận Thổ sau hơn hai mươi năm xa cách.
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức tự sự: đoạn a. Ngoài tự sự tác giả còn sử dụng hồi tưởng. Thông qua đoạn văn, từ mối quan hệ gắn bó của “tôi” và Nhuận Thổ khi còn thơ ấu để làm nổi bật sự thay đổi trong thái độ của Nhuận Thổ với “tôi” ở hiện tại.
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức nghị luận: c. Thông qua đó, tác giả muốn đặt ra vấn đề về con đường nào cho cả dân tộc Trung Hoa – con đường để xây dựng, đổi mới đất nước.
II. Luyện tập
Nhuận Thổ lúc còn nhỏ (20 năm trước)
Nhuận Thổ lúc đứng tuổi (lúc “tôi trở về)
Hình dáng
khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng.
cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm.
Động tác
Tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, cố sức đâm theo một con tra,
Môi mấp máy, không ra tiếng, dáng điệu cung kính.
Thái độ đối với tôi
Advertisement
Không ngại ngùng, đầy thân thiết
cung kính, lễ phép
Tình cách
Hồn nhiên, lanh lợi
khúm núm, e dè…
Soạn bài Cố hương – Mẫu 3I. Trả lời câu hỏi
Câu 1.
Truyện có bố cục 3 phần:
Phần 1. Từ đầu đến “đem gia đình đến nơi đất khách tôi đang làm ăn, sinh sống”: Nhân vật tôi trên đường về thăm quê.
Phần 2. Tiếp theo đến “tất cả đồ đạc trong ngôi nhà cũ, hư hỏng, to nhỏ, xấu tốt đều mang đi sạch trơn như quét”: Nhân vật tôi trong những ngày ở quê.
Phần 3. Còn lại: Nhân vật tôi khi rời xa quê.
Câu 2.
Trong truyện có hai nhân vật chính là nhân vật “tôi” và Nhuận Thổ.
Nhân vật trung tâm của truyện là “tôi”.
Vì nhân vật “tôi” xuất hiện xuyên suốt câu chuyện, đóng vai trò là người kể chuyện từ đó thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá sự việc.
Câu 3.
– Tác giả đã sử dụng biện pháp để làm nổi bật sự thay đổi của Nhuận Thổ: hồi tưởng và đối chiếu.
– Ngoài sự thay đổi của Nhuận Thổ, tác giả còn miêu tả sự thay đổi của con người và cảnh vật ở cố hương:
Khung cảnh làng quê: Các gia đình đã dọn đi gần hết, làng quê trở nên tiêu điều.
Con người: Chị Hai Dương: – “nàng Tây Thi đậu phụ” là một người phụ nữ duyên dáng, trước đây được mọi người yêu quý, sau nhiều năm trở thành một người phụ nữ xấu cả ngoại hình lẫn tính cách.
– Tác giả đã biểu hiện tình cảm, thái độ đau xót trước sự thay đổi của quê hương, con người. Từ đó, vấn đề được đặt ra là con đường đi của người nông dân, của toàn xã hội lúc bấy giờ.
Câu 4. Đọc kĩ ba đoạn văn trong SGK và trả lời câu hỏi:
– Đoạn văn nào chủ yếu dùng phương thức miêu tả và thông qua đó, tác giả muốn thể hiện điều gì?
– Đoạn nào chủ yếu dùng phương thức tự sự? Ngoài tự sự, tác giả còn sử dụng các yếu tố của phương thức biểu đạt nào khác? Nêu hiệu quả của sự kết hợp đó trong việc thể hiện tính cách nhân vật.
– Đoạn nào chủ yếu dùng phương thức nghị luận và thông qua đó, tác giả muốn nói lên điều gì?
Gợi ý:
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức miêu tả là đoạn b: Biểu hiện sự thay đổi của Nhuận Thổ sau hơn hai mươi năm xa cách.
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức tự sự là đoạn a. Ngoài tự sự tác giả còn sử dụng hồi tưởng. Sự kết hợp đó góp phần làm nổi bật sự thay đổi trong thái độ của Nhuận Thổ với “tôi” ở hiện tại.
– Đoạn văn chủ yếu dùng phương thức nghị luận là đoạn c: Đặt ra vấn đề về con đường nào cho cả dân tộc Trung Hoa – con đường để xây dựng, đổi mới đất nước.
II. Luyện tập
Nhuận Thổ lúc còn nhỏ (20 năm trước)
Nhuận Thổ lúc đứng tuổi (lúc “tôi trở về)
Hình dáng
khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật, đầu đội mũ lông chiên bé tẹo, cổ đeo vòng bạc sáng loáng.
cao gấp hai trước, khuôn mặt tròn trĩnh, nước da bánh mật trước kia nay đổi thành vàng sạm, lại có thêm những nếp răn sâu hoắm.
Động tác
Tay lăm lăm cầm chiếc đinh ba, cố sức đâm theo một con tra,
Môi mấp máy, không ra tiếng, dáng điệu cung kính.
Thái độ đối với tôi
Không ngại ngùng, đầy thân thiết
cung kính, lễ phép
Tình cách
Hồn nhiên, lanh lợi
khúm núm, e dè…
…
Soạn Bài Đồng Chí Soạn Văn 9 Tập 1 Bài 10 (Trang 128)
Soạn bài Đồng chí
Hôm nay, chúng tôi mời bạn đọc tham khảo tài liệu Soạn văn 9: Đồng chí, được chúng tôi giới thiệu. Mời tham khảo nội dung chi tiết ngay sau đây.
I. Tác giả
– Chính Hữu (1926 – 2007) tên khai sinh là Trần Đình Đắc.
– Quê ở huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
– Năm 1946, ông gia nhập trung đoàn thủ đô và hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ.
– Ông làm thơ từ năm 1947, đa số các tác phẩm đều viết về hai đối tượng là chiến tranh và người lính.
– Năm 2000, ông được trao tặng giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
– Một số tác phẩm:
Đầu súng trăng treo (tập thơ, Nhà xuất bản Văn học, 1966)
Thơ Chính Hữu (tập thơ, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 1997)
Tuyển tập Chính Hữu (Nhà xuất bản Văn học, 1998)
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Bài thơ được sáng tác năm 1948 khi Chính Hữu cùng với đồng đội tham gia chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của thực dân Pháp.
– Đây là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất viết về người lính trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
Phần 1: Từ đầu đến “Đồng chí!”. Cơ sở của tình đồng chí, đồng đội.
Phần 2. Tiếp theo đến “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”. Biểu hiện của tình đồng chí.
Phần 3. Còn lại. Biểu tượng của tinh thần đồng chí.
3. Thể thơ
Thể thơ tự do
Hình ảnh gần gũi, giản dị
Ngôn ngữ cô đọng, giàu sức biểu cảm.
4. Ý nghĩa nhan đề
– Trước hết, đồng chí là cách gọi để chỉ những người có cùng chung lý tưởng, mục tiêu hay cùng chung một đơn vị chiến đấu.
– Nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về tình cảm trung tâm của bài thơ là tình đồng chí, đồng đội. Đó là thứ tình cảm cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng.
– Chính Hữu đã từng tâm sự: “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lý tưởng cách mạng”.
– Qua nhan đề này, nhà thơ muốn khẳng định rằng tình đồng chí, đồng đội là chỗ dựa tinh thần để người lính tồn tại, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, để chiến đấu và chiến thắng.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Cơ sở của tình đồng chí, đồng đội
– Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
“Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua” còn “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”.
Hai miền đất xa nhau và “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”.
Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: Họ là những người nông dân nghèo.
– Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Họ vốn “chẳng hẹn quen nhau” nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
– Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”.
Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.
2. Biểu hiện của tình đồng chí
– Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ “mặc kệ”cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
– Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :
Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Cặp từ xưng hô “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
3. Biểu tượng của tinh thần đồng chí
– Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả…
– Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya.
– Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa.
“Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn.
Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn.
Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ – tập “Đầu súng trăng treo”.
Tổng kết:
– Nội dung: Bài thơ Đồng chí đã khắc họa được hình ảnh người lính cách mạng và tình cảm đồng đội, đồng chí gắn bó keo sơn của họ.
– Nghệ thuật: Hình ảnh, ngôn ngữ giản dị, chân thực và cô đọng, giàu sức biểu cảm.
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Dòng thứ bảy của bài thơ có gì đặc biệt? Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai như thế nào trước và sau dòng thơ đó?
– Dòng thứ bảy của bài thơ chỉ gồm hai tiếng: “Đồng chí” và kết thúc câu bởi dấu “!”.
– Câu thơ như một dấu gạch nối mở đầu giữa mạch cảm xúc của bài thơ: Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Hai tiếng: “Đồng chí!” cất lên nghe đầy trân trọng và yêu mến. Đó chính là lời khẳng định cho tình cảm của những người lính trong những năm tháng chiến đấu gian khổ mà tự hào.
Câu 2. Sáu dòng đầu bài thơ đã nói về cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính cách mạng. Cơ sở ấy là gì?
– Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính:
“Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua” còn “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”.
Hai miền đất xa nhau và “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”.
Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: Họ là những người nông dân nghèo.
– Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu:
Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Họ vốn “chẳng hẹn quen nhau” nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng.
“Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ.
Phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
– Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui:
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”.
Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.
Câu 3. Hãy tìm trong bài thơ những chi tiết, hình ảnh biểu hiện tình đồng chí, đồng đội làm nên sức mạnh của người lính cách mạng. Phân tích ý nghĩa, giá trị của những chi tiết hình ảnh đó.
– Tình đồng chí là sự cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau. Những người lính gắn bó với nhau, họ hiểu đến những nỗi niềm sâu xa, thầm kín của đồng đội mình:
Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ “mặc kệ”cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
– Tình đồng chí còn là cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính :
Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Cặp từ xưng hô “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
Câu 4.
Những câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về người lính và cuộc chiến đấu? Hãy phân tích vẻ đẹp và ý nghĩa của hình ảnh trong những câu thơ ấy.
– Những câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ:
Về người lính: Họ luôn sẵn sàng đối mặt với cuộc chiến đấu.
Về cuộc chiến đấu: đây là cuộc cuộc chiến khốc liệt.
– Phân tích vẻ đẹp:
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả…
Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya.
Câu 5. Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính là “Đồng chí”?
– “Đồng chí” trước hết là để chỉ những người cùng chung một đơn vị.
– Nhưng họ còn gắn bó với nhau, cùng chung cảnh ngộ, cùng chung lý tưởng, cùng vượt qua khó khăn.
– Tình đồng đội, đồng chí chính là chỗ dựa tinh thần để họ vượt qua những khó khăn, gian khổ.
– Tình cảm này đã trở thành nguồn cảm hứng để nhà thơ sáng tác và đặt tên cho bài thơ là “Đồng chí” – tình cảm chủ đạo trong bài thơ.
Câu 6. Qua bài thơ này, em có cảm nhận gì về hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp?
Hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp:
– Xuất thân từ những người nông dân nghèo khó, nhưng có tinh thần yêu nước sâu sắc.
– Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
– Dù trong khó khăn, gian khổ nhưng vẫn sáng ngời tinh thần lạc quan, chủ động đương đầu với kẻ thù.
II. Luyện tập
Viết một đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng chí” (Đêm nay… trăng treo”).
Gợi ý:
Khổ thơ cuối cùng của bài thơ “Đồng chí” như một cái kết đẹp cho tình đồng đội, đồng chí:
Hình ảnh rừng vào buổi đêm vắng vẻ, lạnh giá và thật khắc nghiệt với “sương muối”. Nhưng người lính vẫn đứng đó, bên nhau để “chờ giặc tới” – một tâm thế chủ động đối mặt với cuộc chiến. Dù khó khăn, gian khổ luôn cận kề thì người lính vẫn không chịu khuất phục. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình cảm đồng chí đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn trong cuộc chiến.
Câu thơ cuối cùng gợi lên một hình ảnh thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. “Súng” là biểu tượng cho hiện thực của cuộc chiến tranh đầy khốc liệt. Còn “trăng” là biểu tượng cho hòa bình, cho sự thơ mộng. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” đi cùng nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời của người lính. Chính Hữu đã từng nói về hình ảnh này: “Đầu súng trăng treo, ngoài hình ảnh, bốn chữ này còn có nhịp điệu như lắc của một cái gì lơ lửng chông chênh trong sự bát ngát. Nó nói lên một cái gì lơ lửng ở rất xa chứ không phải là buộc chặt, suốt đêm vầng trăng ở bầu trời cao xuống thấp dần và có lúc như treo lơ lửng trên đầu mũi súng. Những đêm phục kích chờ giặc, vầng trăng như một người bạn”. Nhưng bên cạnh hình ảnh tả thực, nó còn mang ý nghĩa tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đồng đội tồn tại bất diệt trong những năm kháng chiến gian khổ.
Như vậy, khổ thơ cuối cuối của bài thơ “Đồng chí” đã khắc họa một biểu tượng đẹp về tình đồng chí.
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Dòng thứ bảy của bài thơ có gì đặc biệt? Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai như thế nào trước và sau dòng thơ đó?
Dòng thơ thứ bảy chỉ có hai tiếng ngắn gọn: “Đồng chí” và kết thúc câu bởi dấu chấm than. Câu thơ như một dấu gạch nối mở đầu giữa mạch cảm xúc của bài thơ: Câu thơ 7, 8 từ đột ngột rút ngắn lại hai từ “đồng chí” làm diễn tả niềm tự hào xúc động ngân nga mãi trong lòng. Hai tiếng: “Đồng chí!” cất lên nghe đầy trân trọng và yêu mến. Đó chính là lời khẳng định cho tình cảm của những người lính trong những năm tháng chiến đấu gian khổ mà tự hào.
Câu 2. Sáu dòng đầu bài thơ đã nói về cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính cách mạng. Cơ sở ấy là gì?
– Tình đồng chí bắt nguồn từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính: “Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua” còn “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa nhau và “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”. Hai câu thơ giới thiệu thật giản dị hoàn cảnh xuất thân của người lính: Họ là những người nông dân nghèo.
– Tình đồng chí hình thành từ sự cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu. Những người lính vốn “chẳng hẹn quen nhau” nhưng lý tưởng chung của thời đại đã gắn kết họ lại với nhau trong hàng ngũ quân đội cách mạng. Hình ảnh “Súng” biểu tượng cho nhiệm vụ chiến đấu, “đầu” biểu tượng cho lý tưởng, suy nghĩ. Cùng với phép điệp từ (súng, đầu, bên) tạo nên âm điệu khoẻ, chắc, nhấn mạnh sự gắn kết, cùng chung lý tưởng, cùng chung nhiệm vụ.
– Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui. Cái khó khăn thiếu thốn hiện lên: đêm rét, chăn không đủ đắp nên phải “chung chăn”. Nhưng chính sự chung chăn ấy, sự chia sẻ với nhau trong gian khổ ấy đã trở thành niềm vui, thắt chặt tình cảm của những người đồng đội để trở thành “đôi tri kỷ”.
Câu 3. Hãy tìm trong bài thơ những chi tiết, hình ảnh biểu hiện tình đồng chí, đồng đội làm nên sức mạnh của người lính cách mạng. Phân tích ý nghĩa, giá trị của những chi tiết hình ảnh đó.
Những chi tiết, hình ảnh biểu hiện cho tình đồng chí, đồng đội làm nên sức mạnh:
– Người lính đi chiến đấu để lại sau lưng những gì yêu quý nhất của quê hương: ruộng nương, gian nhà, giếng nước gốc đa. Từ “mặc kệ”cho thấy tư thế ra đi dứt khoát của người lính.
– Nhưng sâu xa trong lòng, họ vẫn da diết nhớ quê hương. Ở ngoài mặt trận, họ vẫn hình dung thấy gian nhà không đang lung lay trong cơn gió nơi quê nhà xa xôi.
– Những gian lao, thiếu thốn trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống pháp hiện lên rất cụ thể, chân thực: áo rách, quần vá, chân không giày, sự khổ sở của những cơn sốt rét rừng hành hạ, trời buốt giá, môi miệng khô và nứt nẻ, nói cười rất khó khăn, có khi nứt ra chảy cả máu. Nhưng những người lính vẫn cười bởi họ có hơi ấm và niềm vui của tình đồng đội “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.
– Hơi ấm ở bàn tay, ở tấm lòng đã chiến thắng cái lạnh ở “chân không giày” và thời tiết “buốt giá”. Cặp từ xưng hô “anh” và “tôi” luôn đi với nhau, có khi đứng chung trong một câu thơ, có khi đi sóng đôi trong từng cặp câu liền nhau diễn tả sự gắn bó, chia sẻ của những người đồng đội.
Câu 4.
Những câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về người lính và cuộc chiến đấu? Hãy phân tích vẻ đẹp và ý nghĩa của hình ảnh trong những câu thơ ấy.
– Những câu thơ trên gợi tư thế sẵn sàng của người lính, đồng thời cho thấy sự khốc liệt của cuộc chiến tranh.
– Phân tích vẻ đẹp:
Nổi lên trên cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả…
Câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya.
Câu 5. Theo em, vì sao tác giả lại đặt tên cho bài thơ về tình đồng đội của những người lính là “Đồng chí”?
Trước hết, đồng chí là cách gọi để chỉ những người có cùng chung lý tưởng, mục tiêu hay cùng chung một đơn vị chiến đấu. Nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về tình cảm trung tâm của bài thơ là tình đồng chí, đồng đội. Đó là thứ tình cảm cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng. Nhà thơ Chính Hữu đã từng tâm sự: “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lý tưởng cách mạng”. Qua nhan đề này, nhà thơ muốn khẳng định rằng tình đồng chí, đồng đội là chỗ dựa tinh thần để người lính tồn tại, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, để chiến đấu và chiến thắng.
Câu 6. Qua bài thơ này, em có cảm nhận gì về hình ảnh anh bộ đội thời kháng chiến chống Pháp?
Xuất thân từ những người nông dân nghèo khó, nhưng có tinh thần yêu nước sâu sắc.
Sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Dù trong khó khăn, gian khổ nhưng vẫn sáng ngời tinh thần lạc quan, chủ động đương đầu với kẻ thù.
Advertisement
II. Luyện tập
Viết một đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng chí” (Đêm nay… trăng treo”).
Gợi ý:
Chỉ có ba câu thơ ngắn nhưng có thể tóm lại toàn bài, khẳng định rõ ràng nhất giá trị của bài thơ. Giữa rừng đêm lạnh giá, có hai ngọn súng, hai con người dựa sát vào nhau chờ giặc. Ánh trăng lên tỏa sáng rừng núi và chếch dần, chếch dần như treo lơ lửng trên ngọn súng người lính. Hình ảnh mang tính lãng mạn và hiện thực. Nó giàu chất thơ và thể hiện rõ ràng cuộc sống, tính cách, tâm hồn của những người lính, đọc câu thơ ấy, ta chợt liên tưởng đến câu thơ:
Hai hình ảnh đều cảm động và chứa chan tình người lính, chứa chan chất thơ.
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1.
– Dòng thứ bảy của bài thơ chỉ gồm hai tiếng: “Đồng chí” và kết thúc câu bởi dấu “!”.
– Mạch cảm xúc và suy nghĩ trong bài thơ được triển khai: Trước là cơ sở của tình đồng chí, sau đó là biểu hiện của tình đồng chí.
Câu 2.
Cơ sở hình thành tình đồng chí của những người lính cách mạng:
– Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính. Họ đều là những người nông dân nghèo: “Anh” ra đi từ vùng “nước mặn đồng chua” còn “tôi” từ miền “đất cày lên sỏi đá”. Hai miền đất xa nhau và “đôi người xa lạ” nhưng cùng giống nhau ở cái “nghèo”.
– Cùng chung nhiệm vụ, cùng chung lý tưởng, sát cánh bên nhau trong hàng ngũ chiến đấu.
– Tình đồng chí nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa và chia sẻ mọi gian lao cũng như niềm vui.
Câu 3.
Những chi tiết, hình ảnh biểu hiện cho tình đồng chí, đồng đội làm nên sức mạnh:
Sự cảm thông những tâm sự, nỗi lòng của nhau:
Chia sẻ gian lao, thiếu thốn trong cuộc đời người lính:
Câu 4.
– Câu thơ cho thấy sự khắc nghiệt của núi rừng, cũng như tinh thần chủ động của người lính.
– Phân tích vẻ đẹp:
Đêm nay rừng hoang sương muối: Đêm đã khuya, trong rừng lạnh lẽo, hoang vu.
Hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”: Thể hiện tình đồng chí gắn bó, cùng sát cánh bên nhau.
“Đầu súng trăng treo”: “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính.
Câu 5.
“Đồng chí” là cách gọi để chỉ những người có cùng chung lý tưởng, mục tiêu hay cùng chung một đơn vị chiến đấu. Nhan đề của bài thơ đã gợi cho người đọc về tình cảm trung tâm của bài thơ là tình đồng chí, đồng đội. Đó là thứ tình cảm cốt lõi, là bản chất sâu xa của sự gắn bó giữa những người lính cách mạng. Nhà thơ Chính Hữu đã từng tâm sự: “Những năm đầu cách mạng từ “đồng chí” mang ý nghĩa thiêng liêng và máu thịt vô cùng. Nơi khó khăn, cuộc sống của người này trở nên cần thiết với người kia. Một người có thể thay thế cho gia đình, cho cha mẹ, vợ con đối với một người khác. Hơn nữa, họ còn bảo vệ nhau trước mũi súng của kẻ thù, cùng nhau đi qua cái chết, chống lại cái chết, cùng nhau thực hiện một lý tưởng cách mạng”. Qua nhan đề này, nhà thơ muốn khẳng định rằng tình đồng chí, đồng đội là chỗ dựa tinh thần để người lính tồn tại, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, để chiến đấu và chiến thắng.
Câu 6.
Họ là những người có xuất thân nghèo khó, nhưng lại có tinh thần yêu nước sâu sắc.
Luôn sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Dù trong khó khăn, gian khổ nhưng vẫn sáng ngời tinh thần lạc quan, chủ động đương đầu với kẻ thù.
II. Luyện tập
Viết một đoạn văn trình bày cảm nhận của em về đoạn cuối bài thơ “Đồng chí” (Đêm nay… trăng treo”).
Gợi ý:
Ba câu cuối cùng kết thúc bài thơ bằng một hình ảnh thơ thật đẹp:
Nổi bật trong khung cảnh rừng đêm hoang vắng, lạnh lẽo là hình ảnh người lính “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”. Đó là hình ảnh cụ thể của tình đồng chí sát cánh bên nhau trong chiến đấu. Họ đã đứng cạnh bên nhau giữa cái giá rét của rừng đêm, giữa cái căng thẳng của những giây phút “chờ giặc tới”. Tình đồng chí đã sưởi ấm lòng họ, giúp họ vượt lên tất cả. Nhưng câu thơ cuối cùng mới thật đặc sắc: “Đầu súng trăng treo”. Đó là một hình ảnh thật mà bản thân Chính Hữu đã nhận ra trong những đêm phục kích giữa rừng khuya. Nhưng nó còn là một hình ảnh thơ độc đáo, có sức gợi nhiều liên tưởng phong phú sâu xa. “Súng” biểu tượng cho chiến tranh, cho hiện thực khốc liệt. “Trăng” biểu tượng cho vẻ đẹp yên bình, mơ mộng và lãng mạn. Hai hình ảnh “súng” và “trăng” kết hợp với nhau tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính – chiến sĩ mà thi sĩ, thực tại mà mơ mộng. Hình ảnh ấy mang được cả đặc điểm của thơ ca kháng chiến – một nền thơ giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. Vì vậy, câu thơ này đã được Chính Hữu lấy làm nhan đề cho cả một tập thơ – tập “Đầu súng trăng treo”. Đoạn kết bài thơ là một bức tranh đẹp về tình đồng chí, đồng đội của người lính
Soạn Bài Chuyện Cũ Trong Phủ Chúa Trịnh Soạn Văn 9 Tập 1 Bài 5 (Trang 60)
Soạn bài Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh
Chúng tôi sẽ giới thiệu bài Soạn văn 9: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh. Mời các bạn học sinh tham khảo để có thể chuẩn bị bài đầy đủ và nhanh chóng hơn.
I. Tác giả
– Phạm Đình Hổ (1768 – 1839) tên chữ là Tùng Niên hoặc Bỉnh Trực hiệu Đông Dã Tiều, tục gọi là Chiêu Hổ, người làng Đan Loan, huyện Đường An, tỉnh Hải Dương (nay là xã Nhân Quyền, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương).
– Ông sống vào thời buổi đất nước loạn lạc nên muốn ẩn cư. Đến thời Minh Mạng nhà Nguyễn, vua vời ông ra làm quan. Tuy nhiều lần ông đã từ chức nhưng lại bị triệu ra.
– Phạm Đình Hổ để lại nhiều công trình biên soạn, khảo cứu có giá trị thuộc đủ các lĩnh vực: văn học, triết học, lịch sử… đều bằng chữ Hán.
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Vũ Trung tùy bút (Tùy bút viết trong những ngày mưa) là một tác phẩm đặc sắc của Phạm Đình Hổ, được viết vào khoảng đầu đời Nguyễn (đầu thế kỉ XIX).
– Tác phẩm trên gồm 88 mẩu chuyện nhỏ viết theo thể tùy bút, hiểu theo nghĩa là ghi chép tản mạn, tùy hứng không theo hệ thống kết cấu gì.
2. Bố cục
Gồm 2 phần:
Phần 1: Từ đầu đến “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”. Cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh.
Phần 2. Còn lại. Bọn hoạn quan mượn danh chúa để vơ vét của dân.
3. Tóm tắt
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh kể về cháu Trịnh Sâm. Sau khi dẹp hết bè phái trong ngoài muốn tranh giành quyền lực thì ra sức ăn chơi trác tán. Trịnh Sâm thường có thú vui là thưởng ngoạn Tây Hồ. Binh lính, quan lại theo hầu đông vui không khác gì mở hội. Chúa đi đến đâu cũng đem hết những thứ quý giá đem về phủ, không thiếu một thứ gì. Bọn quan lại trong cùng thường mượn gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm dân thường để vơ vét những đồ quý giá đem vào dân chúa.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh
Cuộc sống xa hoa, hưởng lạc của chúa Trịnh được tác giả ghi chép một cách chân thực, tỉ mỉ:
– Thời gian: Khoảng năm Giáp Ngọ, Ất Mùi (1774 – 17750) trong nước vô sư.
– Chúa Trịnh Sâm cho xây dựng đền đài liên miên để thỏa mãn thú ăn chơi, hưởng lạc.
– Mỗi tháng ba lần đều ra cung Thụy Liên trên Tây Hồ dạo chơi, mỗi cuộc đều đem theo nhiều binh lính tùy tùng.
– Đặc biệt là, thuyền đi đến đâu cũng ghé vào các cửa hàng trong chợ, vơ vét những sản vật quý trong thiên hạ đem về phủ không thiếu một thứ gì.
– Nhà văn tập trung miêu tả khung cảnh tùy tung đem một cây đa về phủ chúa để cho thấy sự kỳ công, sa hoa và tốn kém của chúa.
2. Bọn hoạn quan mượn danh chúa để vơ vét của dân
Thói ăn chơi hưởng lạc của người đứng đầu đất nước đã tạo cơ hội cho bọn hoạn quan mượn gió bẻ mang, ra ngoài dọa dẫm dân lành.
– Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh… thì biên lai hai chữ “phụng thủ” (lấy để dâng lên chúa) nhưng thực chất là đêm đến sai lính đến lấy đi rồi buộc tội cho người chủ là giấu vật cung phụng để lấy tiền của họ.
– Câu chuyện của chính gia đình ông: trước tiền đường có trồng một cây lê, cao vài mươi trượng, lúc hoa nở trắng xóa thơm lừng và cây lựu trắng, lựu đó lúc ra quả trông rất đẹp nhưng đều phải chặt đi cũng vì tránh tai họa như vậy.
Tổng kết:
– Nội dung: Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh đã phản ánh đời sống xa hoa của vua chúa và sự nhũng nhiễu của bọn quan lại thời Lê – Trịnh.
– Nghệ thuật: Lối văn ghi chép sự việc cụ thể, chân thực, sinh động.
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận được miêu tả thông qua những chi tiết nào? Hãy nhận xét về lời văn ghi chép sự việc của các tác giả. Tại sao kết thúc đoạn văn miêu tả này, tác giả lại nói: “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”?
– Những chi tiết cho thấy thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận:
Chúa cho xây dựng cung đình, đền đài ở khắp nơi.
Thường xuyên tổ chức các cuộc dạo chơi ở Tây Hồ: mỗi tháng đến ba bốn lần. Huy động nhiều kẻ hầu người hạ, bày trò giải trí lố lăng.
Việc tìm vật “phụng thủ” diễn ra thực chất là để cướp đoạt những đồ quý trong thiên hạ và bóc lột tiền của.
– Lý do tác giả nói “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”: giống như một lời dự báo về một thảm họa sắp xảy ra.
Câu 2. Bọn quan lại hầu cần trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn văn cuối bài: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu cũng vì cớ ấy”.
– Bọn quan lại trong phủ chúa đã nhũng nhiều dân bằng những thủ đoạn: Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh… thì biên lai hai chữ “phụng thủ” (lấy để dâng lên chúa) nhưng thực chất là đêm đến sai lính đến lấy đi rồi buộc tội cho người chủ là giấu vật cung phụng để lấy tiền của họ.
– Ý nghĩa của đoạn cuối bài: Lời minh chứng khẳng định cho những chi tiết ở trên thêm thuyết phục hơn vì đó là câu chuyện xảy ra trong chính gia đình tác giả.
Câu 3. Theo em, có thể văn tùy bút trong bài có gì khác so với thể truyện mà các em đã học ở bài trước?
– Truyện: có cốt truyện cụ thể, rõ ràng và nhân vật được khắc họa với những nét ngoại hình, tính cách.
– Tùy bút: ghi chép các sự việc một cách tùy hứng, không theo một trình tự nào và nhân vật thì ít được khắc họa ngoại hình, tính cách.
II. Luyện tập
Gợi ý:
Quan lại không khuyên can mà còn ỷ vào điều đó để lũng loạn thêm
Cuộc sống của nhân dân nghèo khổ, bị áp bức và bóc lột.
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận được miêu tả thông qua những chi tiết nào? Hãy nhận xét về lời văn ghi chép sự việc của các tác giả. Tại sao kết thúc đoạn văn miêu tả này, tác giả lại nói: “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”?
– Thói ăn chơi xa xỉ của chúa Trịnh và các quan hầu cận được miêu tả thông qua:
Chúa Trịnh Sâm cho xây dựng đền đài liên miên để thỏa mãn thú ăn chơi, hưởng lạc.
Mỗi tháng ba lần đều ra cung Thụy Liên trên Tây Hồ dạo chơi, mỗi cuộc đều đem theo nhiều binh lính tùy tùng.
Đặc biệt là, thuyền đi đến đâu cũng ghé vào các cửa hàng trong chợ, vơ vét những sản vật quý trong thiên hạ đem về phủ không thiếu một thứ gì.
– Lý do tác giả nói “kẻ thức giả biết đó là triệu bất tường”: giống như một lời dự báo về một thảm họa sắp xảy ra.
Câu 2. Bọn quan lại hầu cần trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn văn cuối bài: “Nhà ta ở phường Hà Khẩu cũng vì cớ ấy”.
– Bọn quan lại hầu cần trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn: Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh… thì biên lai hai chữ “phụng thủ” (lấy để dâng lên chúa) nhưng thực chất là đêm đến sai lính đến lấy đi rồi buộc tội cho người chủ là giấu vật cung phụng để lấy tiền của họ.
– Ý nghĩa của đoạn cuối bài: Lời minh chứng khẳng định cho những chi tiết ở trên thêm thuyết phục hơn vì đó là câu chuyện xảy ra trong chính gia đình tác giả.
Câu 3. Theo em, có thể văn tùy bút trong bài có gì khác so với thể truyện mà các em đã học ở bài trước?
– Truyện: có cốt truyện cụ thể, rõ ràng và nhân vật được khắc họa với những nét ngoại hình, tính cách.
– Tùy bút: ghi chép các sự việc một cách tùy hứng, không theo một trình tự nào và nhân vật thì ít được khắc họa ngoại hình, tính cách.
II. Luyện tập
Gợi ý:
Qua Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh trích trong Vũ trung tùy bút đã thể hiện trình trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII đã được phản ánh chân thực. Vua chúa thì chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, không quan tâm đến việc triều chính. Còn quan lại không khuyên can mà còn ỷ vào điều đó để lũng loạn thêm. Tình trạng đất nước trở nên rối ren, hỗn loạn. Điều đó khiến cho đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy. Thật là căm giận thay cho một chính quyền mục nát.
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1.
– Thói ăn chơi xa xỉ của các chúa Trịnh và các quan lại hầu cận được miêu tả qua các chi tiết:
Xây dựng nhiều cung điện, đình đài liên miên.
Mỗi tháng ba bốn lần, Vương ra cung Thụy Liên trên bờ Tây Hồ, binh lính dàn hầu vòng quanh bốn mặt hồ, các nội thần đều bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hóa chung quanh bờ hồ để bán.
Bao nhiêu loại trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, Chúa đều ra sức thu lấy, không thiếu một thứ gì.
Advertisement
– Lời văn ghi chép sự việc của tác giả: Khách quan, chân thực với những dẫn chứng cụ thể, rõ ràng.
– Nguyên nhân: Tác giả dự báo về tai họa có thể xảy ra trong tương lai.
Câu 2.
– Những trò nhũng nhiễu dân của bọn quan lại, hầu cận: Nhờ gió bẻ măng, ra ngoài dọa dẫm; Họ dò xét nhà nào có chậu hoa cây cảnh, chim tốt khướu hay thì biên ngay hai chữ “phụng thủ” vào. Đêm đến, các cậu trèo qua tường thành lẻn ra, sai tay chân đem lính đến lấy phăng đi, rồi buộc tội đem giấu vật cung phụng để dọa lấy tiền.
– Ý nghĩa của đoạn cuối: Tác giả ghi lại những việc xảy ra trong chính gia đình của mình nhằm làm tăng tính chân thực.
Câu 3.
– Truyện:
Cốt truyện được trình bày có mở đầu, diễn biến, kết thúc
Nhân vật được xây dựng có đặc điểm ngoại hình, chi tiết miêu tả nội tâm, diễn biến tâm lí.
– Tuỳ bút:
Là sự ghi chép tuỳ hứng, có khi tản mạn, không theo một cốt truyện nào mà chủ yếu nhằm bộc lộ tình cảm, thái độ của tác giả.
Nhân vật ít được miêu tả ngoại hình, tâm lí.
II. Luyện tập
Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh được trích trong Vũ trung tùy bút của nhà văn Phạm Đình Hổ đã cho thấy thực trạng đất nước ta vào thời vua Lê – chúa Trịnh cuối thế kỉ XVIII. Vua chúa thì chỉ biết ăn chơi hưởng lạc, không quan tâm đến việc triều chính. Tiêu biêu là chúa Trịnh Sâm, quanh năm cho xây dựng đền đài liên miên để thỏa mãn thú ăn chơi, hưởng lạc. Mỗi tháng ba lần đều ra cung Thụy Liên trên Tây Hồ dạo chơi, mỗi cuộc đều đem theo nhiều binh lính tùy tùng. Đặc biệt là, thuyền đi đến đâu cũng ghé vào các cửa hàng trong chợ, vơ vét những sản vật quý trong thiên hạ đem về phủ không thiếu một thứ gì. Còn quan lại không khuyên can mà còn ỷ vào điều đó để lũng loạn thêm. Bọn quan lại hầu cần trong phủ chúa đã nhũng nhiễu dân bằng những thủ đoạn. Họ dò xem nhà nào có chậu hoa cây cảnh… thì biên lai hai chữ “phụng thủ” (lấy để dâng lên chúa) nhưng thực chất là đêm đến sai lính đến lấy đi rồi buộc tội cho người chủ là giấu vật cung phụng để lấy tiền của họ. Từ đó dẫn đến tình trạng đất nước trở nên rối ren, hỗn loạn. Đời sống nhân dân ngày càng khổ cực, bị áp bức và bóc lột đến tận xương tủy. Thật là căm giận thay cho một chính quyền mục nát.
Soạn Bài Đề Văn Thuyết Minh Và Cách Làm Bài Văn Thuyết Minh Soạn Văn 8 Tập 1 Bài 13 (Trang 137)
Đề văn thuyết minh và cách làm bài văn thuyết minh
1. Đề văn thuyết minh
– Đối tượng của đề văn thuyết minh là sự vật, con người, lễ hội, di tích…
– Các đề văn đều có hai phần:
Phần 1: Nêu lên đối tượng cần thuyết minh (gương mặt trẻ thể thao Việt Nam, một tập truyện, chiếc nón lá Việt Nam, chiếc áo dài, đôi dép lốp kháng chiến…)
Phần 2: Nêu yêu cầu thuyết minh (giới thiệu, thuyết minh…)
2. Cách làm bài văn thuyết minh
a. Đối tượng thuyết minh: xe đạp
b. Các phần là:
– Phần mở bài (Từ đầu đến “chuyển động nhờ sức người”): Vai trò của chiếc xe đạp trong cuộc sống.
– Phần thân bài (Tiếp theo đến “một hoạt động thể thao”): Cấu tạo từng phần của xe đạp.
– Kết bài (còn lại): Khẳng định sự tầm quan trọng của xe đạp.
c.
– Để giới thiệu về chiếc xe đạp, bài viết đã trình bày cấu tạo chiếc xe gồm 3 bộ phận chính. Các bộ phận đó là:
Hệ thống chuyển động
Hệ thống chuyên chở
Hệ thống điều khiển
– Trình bày hợp lý theo cấu tạo chiếc xe, mỗi hệ thống cũng được phân tích rõ ràng, cụ thể.
d. Phương pháp thuyết minh trong bài: nêu định nghĩa, phương pháp liệt kê, dùng số liệu, nêu ví dụ, phân tích.
Tổng kết:
– Đề văn thuyết minh nêu các đối tượng để người làm bài trình bày tri thức về chúng.
– Để có thể làm một bài văn thuyết minh, cần tìm hiểu kỹ đối tượng thuyết minh, xác định rõ phạm vi tri thức về đối tượng đó, sử dụng phương pháp thuyết minh thích hợp, ngôn từ chính xác dễ hiểu.
– Bố cục bài văn thuyết minh gồm có ba phần:
Mở bài: Giới thiệu đối tượng thuyết minh
Thân bài: Trình bày cấu tạo, đặc điểm lợi ích… của đối tượng.
Kết bài: Bày tỏ thái độ với đối tượng.
Lập ý và dàn ý cho đề văn: “Giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam”.
1. Mở bài
Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam:
Ví dụ: Chiếc nón lá Việt Nam là một trong những vật dụng để che nắng che mưa duyên dáng và tiện lợi trở thành vật làm duyên đáng yêu cho những cô thiếu nữ ngày xưa, nó gắn bó với con người Việt Nam ta.
2. Thân bài
a. Cấu tạo
– Hình dáng: thường có hình chóp nhọn, ngoài ra còn có loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh.
– Nguyên liệu làm nón: lá cọ, lá buông, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá du quy diệp, nhưng chủ yếu làm bằng lá nón.
– Cách làm một chiếc nón:
Sườn nón là các nan tre. Một chiếc nón cần khoảng 14 – 15 nan. Các nan được uốn thành vòng tròn. Đường kính vòng tròn lớn nhất khoảng 40 cm. Các vòng tròn có đường kính nhỏ dần, khoảng cách nhỏ dần đều là 2 cm.
Xử lý lá: Lá cắt về phơi khô, sau đó xén tỉa theo kích thước phù hợp.
Chằm nón: Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước và kim khâu để chằm nón thành hình chóp.
Trang trí: Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và tính thẩm mỹ (có thể kể thêm trang trí mỹ thuật cho nón nghệ thuật).
– Một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng: Nón lá có ở khắp các nơi, khắp các vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây (làng Chuông)…
b. Công dụng
* Trong cuộc sống nông thôn ngày xưa:
– Những hình ảnh đẹp gắn liền với chiếc nón lá.
– Sự gắn bó giữa chiếc nón lá và người bình dân ngày xưa:
Ca dao (ví dụ)
Câu hát giao duyên (ví dụ)
* Trong cuộc sống công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngày nay:
– Trong sinh hoạt hàng ngày: vẫn được các bà, các mẹ sử dụng.
– Trong các lĩnh vực khác:
Nghệ thuật: Chiếc nón lá đã đi vào thơ ca nhạc hoạ.
Người Việt Nam có một điệu múa lá “múa nón” rất duyên dáng.
Du lịch: biểu tượng du lịch của Việt Nam.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị tinh thần của chiếc nón lá.
Lập ý và dàn ý cho đề văn: “Giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam”.
(1). Mở bài
Giới thiệu khái quát về chiếc nón lá Việt Nam:
(2). Thân bài
a. Cấu tạo
– Hình dáng: thường có hình chóp nhọn, ngoài ra còn có loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh.
– Nguyên liệu làm nón: lá cọ, lá buông, rơm, tre, lá cối, lá hồ, lá du quy diệp, nhưng chủ yếu làm bằng lá nón.
– Cách làm một chiếc nón:
Sườn nón là các nan tre. Một chiếc nón cần khoảng 14 – 15 nan. Các nan được uốn thành vòng tròn. Đường kính vòng tròn lớn nhất khoảng 40 cm. Các vòng tròn có đường kính nhỏ dần, khoảng cách nhỏ dần đều là 2 cm.
Xử lý lá: Lá cắt về phơi khô, sau đó xén tỉa theo kích thước phù hợp.
Chằm nón: Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước và kim khâu để chằm nón thành hình chóp.
Trang trí: Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và tính thẩm mỹ (có thể kể thêm trang trí mỹ thuật cho nón nghệ thuật).
– Một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng: Nón lá có ở khắp các nơi, khắp các vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây (làng Chuông)…
b. Công dụng
* Trong cuộc sống nông thôn ngày xưa:
– Những hình ảnh đẹp gắn liền với chiếc nón lá.
– Sự gắn bó giữa chiếc nón lá và người bình dân ngày xưa:
Ca dao (ví dụ)
Câu hát giao duyên (ví dụ)
* Trong cuộc sống công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngày nay:
– Trong sinh hoạt hàng ngày: vẫn được các bà, các mẹ sử dụng.
– Trong các lĩnh vực khác:
Nghệ thuật: Chiếc nón lá đã đi vào thơ ca nhạc hoạ.
Người Việt Nam có một điệu múa lá “múa nón” rất duyên dáng.
Du lịch: biểu tượng du lịch của Việt Nam.
(3). Kết bài
– Khẳng định giá trị tinh thần của chiếc nón lá.
Lập dàn ý cho bài văn thuyết minh cây bút bi.
Gợi ý:
(1) Mở bài
Giới thiệu chung về tầm quan trọng của bút bi: “Nét chữ là nết người”. Thật vậy, câu thành ngữ ngắn gọn đã đi sâu vào trong tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, nhắc nhở ta về học tập cũng như tầm quan trọng của nét chữ. Bởi học tập là một quá trình đầy khó khăn vất vả để xây dựng những nhân tài phục vụ cho tổ quốc ngày càng tươi đẹp. Và trong quá trình gian nan đó, đóng góp một công lao không nhỏ chính là cây bút bi.
(2). Thân bài
a. Nguồn gốc, xuất xứ
Được phát minh bởi nhà báo Hungari là Lazo Biro vào những năm 1930 quyết định và nghiên cứu. Ông phát hiện mực in giấy rất nhanh khô cứu tạo ra một loại bút sử dụng mực như thế.
a. Cấu tạo
– Vỏ bút: Ống trụ tròn dài từ 14 – 15 cm được làm bằng nhựa dẻo hoặc nhựa màu, trên thân thường có các thông số ghi ngày, nơi sản xuất.
– Ruột bút: Bên trong, làm từ nhựa dẻo, chứa mực đặc hoặc mực nước.
– Bộ phận đi kèm: Lò xo, nút bấm, nắp đậy, trên ngoài vỏ có đai để gắn vào túi áo, vở.
b. Phân loại
– Kiểu dáng và màu sắc khác nhau tùy theo lứa tuổi và thị hiếu của người tiêu dùng.
– Màu sắc đẹp, nhiều kiểu dáng (có sử dụng biện pháp nghệ thuật nhân hoá trong bài)
– Hiện nay trên thị trường đã xuất hiện nhiều thương hiệu bút nổi tiếng.
c. Nguyên lý hoạt động, bảo quản
– Nguyên lý hoạt động: Mũi bút chứa viên bi nhỏ, khi viết lăn ra mực để tạo chữ.
– Bảo quản: Cẩn thận.
d. Ưu điểm, khuyết điểm
– Ưu điểm:
Bền, đẹp, nhỏ gọn, dễ vận chuyển.
Giá thành rẻ, phù hợp với học sinh.
– Nhược điểm: Vì viết được nhanh nên dễ giây mực và chữ không được đẹp. Nhưng nếu cẩn thận thì sẽ tạo nên những nét chữ đẹp mê hồn.
– Phong trào: “Góp bút Thiên Long, cùng bạn đến trường” khơi nguồn sáng tạo.
e. Ý nghĩa
– Càng ngày càng khẳng định rõ vị trí của mình.
– Những chiếc bút xinh xinh nằm trong hộp bút thể hiện được nét thẩm mỹ của mỗi con người
– Dùng để viết, để vẽ.
– Những anh chị bút thể hiện tâm trạng:
Như người bạn đồng hành thể hiện ước mơ, hoài bão… của con người.
“Hãy cho tôi biết nét chữ của bạn, tôi sẽ biết bạn là ai.”
Advertisement
(3). Kết bài
Kết luận và nhấn mạnh tầm quan trọng của cây bút bi trong cuộc sống: Ý nghĩa của việc sử dụng yếu tố nghệ thuật trong văn bản thuyết minh.
Lập ý và dàn ý cho đề văn: “Giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam”.
(I). Mở bài
Dẫn dắt, giới thiệu về chiếc nón lá Việt Nam.
(II). Thân bài
1. Cấu tạo
– Hình dáng: Đa số có hình chóp nhọn, ngoài ra còn có loại nón rộng bản và làm phẳng đỉnh.
– Nguyên liệu: thường làm bằng lá nón, khung tre và một số nguyên liệu khác.
– Cách làm một chiếc nón:
Sườn nón là các nan tre. Một chiếc nón cần khoảng 14 – 15 nan. Các nan được uốn thành vòng tròn. Đường kính vòng tròn lớn nhất khoảng 40 cm. Các vòng tròn có đường kính nhỏ dần, khoảng cách nhỏ dần đều là 2 cm.
Xử lý lá: Lá cắt về phơi khô, sau đó xén tỉa theo kích thước phù hợp.
Chằm nón: Người thợ đặt lá lên sườn nón rồi dùng dây cước và kim khâu để chằm nón thành hình chóp.
Trang trí: Nón sau khi thành hình được quét một lớp dầu bóng để tăng độ bền và tính thẩm mỹ (có thể kể thêm trang trí mỹ thuật cho nón nghệ thuật).
– Nón lá có ở khắp các nơi, khắp các vùng quê Việt Nam. Tuy nhiên một số địa điểm làm nón lá nổi tiếng như: Huế, Quảng Bình, Hà Tây (làng Chuông)…
2. Công dụng
– Trong cuộc sống nông thôn ngày xưa: Chiếc lá giúp con người che nắng, che mưa.
– Trong cuộc sống công nghiệp hoá – hiện đại hoá ngày nay: Đi vào thơ ca nhạc họa, trở thành một biểu tượng…
(III). Kết bài
Khẳng định giá trị của chiếc nón lá.
Soạn Bài Đánh Nhau Với Cối Xay Gió Soạn Văn 8 Tập 1 Bài 7 (Trang 75)
Soạn bài Đánh nhau với cối xay gió
Soạn bài Đánh nhau với cối xay gió – Mẫu 1 Soạn văn Đánh nhau với cối xay gió chi tiếtI. Tác giả
– Xéc-van-tét (1547 – 1616) là một nhà văn người Tây Ba Nha.
– Ông vốn là một binh sĩ, bị thương năm 1957 trong một cuộc thủy chiến và bị bắt giam ở An-giê từ năm 1575 đến năm 1580.
– Khi trở về Tây Ba Nha, ông sống một cuộc đời cực nhọc và âm thầm mãi cho đến khi công bố tiểu thuyết Đôn Ki-hô-tê.
– Tác phẩm tiêu biểu: Hành trình đến Parnassus, Truyện làm gương, Đôn Ki-hô-tê.
II. Tác phẩm
1. Xuất xứ
– Văn bản “Đánh nhau với cối xay gió” được trích trong tiểu thuyết “Đôn Ki-hô-tê”.
– Tác phẩm “Đôn-ki-hô-tê” kể về nhân vật Đôn Ki-hô-tê, một lão quý tộc nghèo say mê đọc tiểu thuyết hiệp sĩ và muốn trở thành hiệp sĩ giang hồ. Lão lục tìm những binh giáp của tổ tiên để tự trang bị vũ khí cho mình, phong cho con ngựa gầy yếu của mình là chiến mã – đặt tên là Rô-xi-na-tê, còn mình là hiệp sĩ xứ Man-tra. Cùng đi với lão là bác giám mã Xan-chô Pan-xa. Sau nhiều phen thất bại ê chề, đến cuối cùng bị ốm nặng và qua đời.
– Đoạn trích “Đánh nhau với cối xay gió” được trích trong chương VIII và chương XIX của tiểu thuyết.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
Phần 1: Từ đầu đền “chứ không phải là bọn khổng lồ”. Nhận định của hai thầy trò về những chiếc cối xay gió.
Phần 2: Tiếp theo đến “con Rô-xi-a-nết cũng bị toác nửa vai”. Hành động của mỗi người đối với những chiếc cối xay.
Phần 3. Còn lại. Cuộc bàn tán sau chuyến phưu lưu.
3. Tóm tắt
Đoạn trích kể lại việc hai thầy trò đang trên đường phiêu lưu thì bắt gặp hàng chục chiếc cối xay gió. Đôn Ki-hô-tê một mực cho rằng đó là những gã khổng lồ và quyết tâm đánh bại chúng bất chấp lời khuyên của Xan-cho Pan-xa. Để rồi đến cuối cùng cả người và ngựa đều bị thương nặng.
Nhưng mặc dù bị thương nặng, Đôn Ki-hô-tê vẫn quyết không kêu đau. Không những vậy, chàng còn quyết không ăn uống gì mà chỉ cần nghĩ đến tình nương là cảm thấy no rồi. Xan-cho Pan-xa thấy vậy bèn bỏ rượu thịt ra chén một mình. Đôn Ki-hô-tô suốt đêm không ngủ và chỉ nghĩ tới tình nương.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê
– Xuất thân: thuộc tầng lớp quý tộc nghèo
– Ngoại hình: gầy gò, cao lêu nghêu
– Phương tiện đi lại: một con ngựa gầy gò, ốm yếu
– Lý tưởng: trừ gian diệt ác, cứu giúp người vô tội (quét sạch cái giống xấu xa này khỏi mặt đất là phụng sự Chúa đấy).
– Hành động: Cho rằng những chiếc cối xay gió là những tên khổng lồ, quyết tâm đánh nhau với chúng để bảo vệ chính nghĩa.
– Diễn biến cuộc chiến:
Thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-cho Pan-xa.
Thét lên rất lớn: “Chớ có chạy trốn lũ hèn mạt nhát gan kia, bởi duy nhất chỉ có một hiệp sĩ tấn công bọn mi đây”; “Dù cho bọn ngươi… đền tội”.
Cầu mong nàng Đuyu-xi-nê-a của mình cứu giúp trong lúc nguy nan này.
Rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc ngựa phi thẳng về phía chiếc cối xay gió gần nhất, đâm mũi giáo vào cánh quạt đang quay khiến nó gãy tan tành.
– Kết quả: Cả người và ngựa đều bị kéo theo văng ra xa. Khi bị thương nhưng vẫn không rên rỉ, kêu than.
2. Giám mã Xan-cho Pan-xa
– Xuất thân: một bác nông dân
– Ngoại hình: béo, lùn
– Phương tiện đi lại: một con lừa vừa béo, vừa thấp.
– Lí tưởng: Chấp nhận làm giám mã cho Đôn Ki-hô-tê chỉ vì muốn trở được cai trị một hòn đảo – được giàu có và quyền lực.
– Hành động:
Ngạc nhiên khi thấy Đôn Ki-hô-tê nói về những gã khổng lồ (Những tên khổng lồ nào cơ?).
Tỉnh táo nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Hét lên khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi hắn lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Chạy đến đỡ Đôn Ki-hô-tê và nhắc lại rằng đó chỉ là những chiếc cối xay gió.
Để mặc chủ không ăn không uống, một mình đánh chén hết chỗ rượu thịt và ngủ say như chết.
Tổng kết:
– Nội dung: Nhà văn đã tạo ra sự đối lập giữa Đôn Ki-hô-tê và Xan-cho Pan-xa tạo nên một cặp nhân vật bất hủ trong văn học thế giới. Từ đó, Xéc-van-tét cũng muốn phê phán những tiểu thuyết hiệp sĩ phiêu lưu hão huyền trong xã hội đương thời.
– Nghệ thuật: nghệ thuật xây dựng nhân vật…
Soạn văn Đánh nhau với cối xay gió ngắn gọnHướng dẫn trả lời câu hỏi:
Câu 1. Xác định ba phần của đoạn truyện này theo trình tự diễn biến trước, trong và sau khi Đôn-ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió. Liệt kê năm sự việc chủ yếu, qua đó tính cách của lão hiệp sĩ và bác giám mã được bộc lộ:
* Ba phần là:
– Phần 1: Từ đầu đền “chứ không phải là bọn khổng lồ”. Nhận định của hai thầy trò về những chiếc cối xay gió.
– Phần 2: Tiếp theo đến “con Rô-xi-a-nết cũng bị toác nửa vai”. Hành động của mỗi người đối với những chiếc cối xay.
– Phần 3. Còn lại. Cuộc bàn tán sau chuyến phưu lưu.
* Năm sự việc là:
Cho rằng những chiếc cối xay gió là những tên khổng lồ, quyết tâm đánh nhau với chúng để bảo vệ chính nghĩa.
Xan-cho Pan-xa tỉnh táo nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-cho Pan-xa.
Xan-cho Pan-xa hét lên khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi hắn lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Đôn Ki-hô-tê không thèm ăn uống mà nhớ tới tình nương. Còn Xan-cho Pan-xa thì ăn uống no say rồi đi ngủ.
* Tính cách:
Đôn Ki-hô-tê: ảo tưởng, điên rồ và phi thực tế.
Xan-cho Pan-xa: tỉnh táo, thực dụng
Câu 2. Qua năm sự việc ấy, phân tích những nét hay và nét dở trong tính cách của nhân vật hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê.
– Nét hay: Có lí tưởng tốt đẹp là hành hiệp trượng nghĩa, cứu đời giúp người.
– Nét dở: Đầu óc bị mê muội, không tỉnh táo vì đọc quá nhiều tiểu thuyết hiệp sĩ. Hành động điên rồ, phi thực tế.
Thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-cho Pan-xa.
Thét lên rất lớn: “Chớ có chạy trốn lũ hèn mạt nhát gan kia, bởi duy nhất chỉ có một hiệp sĩ tấn công bọn mi đây”; “Dù cho bọn ngươi… đền tội”.
Cầu mong nàng Đuyu-xi-nê-a của mình cứu giúp trong lúc nguy nan này.
Rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc ngựa phi thẳng về phía chiếc cối xay gió gần nhất, đâm mũi giáo vào cánh quạt đang quay khiến nó gãy tan tành.
Cả người và ngựa đều bị kéo theo văng ra xa. Khi bị thương nhưng vẫn không rên rỉ, kêu than.
Câu 3. Vẫn qua các sự việc ấy, chứng minh nhân vật Xan-chô Pan-xa cũng bộc lộ cả mặt tốt và xấu.
– Mặt tốt: một con người tỉnh táo, có khát vọng chính đáng (khát vọng làm giàu) và ra sức khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi lão định đánh nhau với cối xay gió.
– Mặt xấu: nhát gian, ích kỉ và vụ lợi…
Ngạc nhiên khi thấy Đôn Ki-hô-tê nói về những gã khổng lồ (Những tên khổng lồ nào cơ?).
Tỉnh táo nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Hét lên khuyên can khi Đôn Ki-hô-tê lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Câu 4. Đối chiếu Đôn-ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa về các mặt: dáng vẻ, nguồn gốc xuất thân, suy nghĩ, hành động… để thấy rõ nhà văn đã xây dựng một cặp nhân vật tương phản.
* Đôn Ki-hô-tê:
– Xuất thân: Dòng dõi quý tộc nghèo.
– Ngoại hình: gầy gò cao lênh khênh lại và cưỡi trên lưng con ngựa nên trông càng cao thêm.
– Lí tưởng: Có khát vọng cao đẹp muốn hữu ích cho đời: hành hiệp trượng nghĩa, cứu giúp người dân vô tội.
– Hành động: đánh nhau với cối xay gió – diệt trừ kẻ xấu xa (chiếc cối xay gió – những tên khổng lồ).
– Tính cách:
Mê muội, hão huyền.
Dũng cảm.
* Xan-chô Pan-xa
– Xuất thân: một bác nông dân.
– Ngoại hình: Bác lùn, béo và ngồi trên lưng một con lừa thấp tè nên càng lùn tịt.
Lý tưởng: Muốn cai trị một hòn đảo (có quyền lực và của cải). Xan-chô Pan-xa có ước muốn tầm thường chỉ lo nghĩ đến cá nhân mình.
Hành động: Khuyên can Đôn Ki-hô-tê đó không phải là những tên khổng lồ mà là cối xay gió.
– Tính cách:
Tỉnh táo, thiết thực.
Hèn nhát.
Soạn bài Đánh nhau với cối xay gió – Mẫu 2Câu 1. Xác định ba phần của đoạn truyện này theo trình tự diễn biến trước, trong và sau khi Đôn-ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió. Liệt kê năm sự việc chủ yếu, qua đó tính cách của lão hiệp sĩ và bác giám mã được bộc lộ.
– Các phần của đoạn trích:
Phần 1: Từ đầu đền “ chứ không phải là bọn khổng lồ ”. Nhận định của hai thầy trò về những chiếc cối xay gió.
Phần 2: Tiếp theo đến “ con Rô-xi-a-nết cũng bị toác nửa vai ”. Hành động của mỗi người đối với những chiếc cối xay.
Phần 3. Còn lại. Cuộc bàn tán sau chuyến phưu lưu.
– Các sự việc chủ yếu:
Đôn Ki-hô-tê cho rằng những chiếc cối xay gió là những tên khổng lồ, quyết tâm đánh nhau với chúng để bảo vệ chính nghĩa.
Xan-chô Pan-xa nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Đôn Ki-hô-tê thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-chô Pan-xa.
Xan-chô Pan-xa hét lên khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi hắn lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Đôn Ki-hô-tê không thèm ăn uống mà nhớ tới tình nương. Còn Xan-chô Pan-xa thì ăn uống no say rồi đi ngủ.
* Tính cách:
Đôn Ki-hô-tê: ảo tưởng, điên rồ và phi thực tế.
Xan-chô Pan-xa: tỉnh táo, thực dụng
Câu 2. Qua năm sự việc ấy, phân tích những nét hay và nét dở trong tính cách của nhân vật hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê.
– Nét hay: Có lí tưởng tốt đẹp là hành hiệp trượng nghĩa, cứu đời giúp người.
– Nét dở: Đầu óc bị mê muội, không tỉnh táo vì đọc quá nhiều tiểu thuyết hiệp sĩ. Hành động điên rồ, phi thực tế.
Thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-chô Pan-xa.
Thét lên rất lớn: “Chớ có chạy trốn lũ hèn mạt nhát gan kia, bởi duy nhất chỉ có một hiệp sĩ tấn công bọn mi đây”; “Dù cho bọn ngươi… đền tội”.
Cầu mong nàng Đuyu-xi-nê-a của mình cứu giúp trong lúc nguy nan này.
Rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc ngựa phi thẳng về phía chiếc cối xay gió gần nhất, đâm mũi giáo vào cánh quạt đang quay khiến nó gãy tan tành.
Cả người và ngựa đều bị kéo theo văng ra xa. Khi bị thương nhưng vẫn không rên rỉ, kêu than.
Câu 3. Vẫn qua các sự việc ấy, chứng minh nhân vật Xan-chô Pan-xa cũng bộc lộ cả mặt tốt và xấu.
– Mặt tốt: một con người tỉnh táo, có khát vọng chính đáng (khát vọng làm giàu) và ra sức khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi lão định đánh nhau với cối xay gió.
– Mặt xấu: nhát gian, ích kỉ và vụ lợi…
Ngạc nhiên khi thấy Đôn Ki-hô-tê nói về những gã khổng lồ (Những tên khổng lồ nào cơ?).
Tỉnh táo nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Hét lên khuyên can khi Đôn Ki-hô-tê lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Câu 4. Đối chiếu Đôn-ki-hô-tê và Xan-chô Pan-xa về các mặt: dáng vẻ, nguồn gốc xuất thân, suy nghĩ, hành động… để thấy rõ nhà văn đã xây dựng một cặp nhân vật tương phản.
Đặc điểm
Đôn-ki-hô-tê
Xan-chô Pan-xa
Xuất thân
Quý tộc nghèo
Nông dân
Ngoại hình
Gầy gò, cao lênh khênh
Lùn, béo
Phương tiện
Ngựa
Lừa
Lí tưởng
Hành hiệp trượng nghĩa, cứu giúp người vô tội
Cai trị một hòn đảo (quyền lực, của cải)
Hành động
Đánh nhau với cối xay gió
Khuyên can Đôn-ki-hô-tê đó không phải là tên khổng lồ mà là cối xay gió.
Tính cách
Mơ mộng hão huyền nhưng cũng rất dũng cảm.
Tỉnh táo, tham lam, hèn nhát.
Soạn bài Đánh nhau với cối xay gió – Mẫu 3Câu 1.
– Ba phần của đoạn truyện này theo trình tự diễn biến trước, trong và sau khi Đôn-ki-hô-tê đánh nhau với cối xay gió:
Phần 1: Từ đầu đền “ chứ không phải là bọn khổng lồ ”. Nhận định của hai thầy trò về những chiếc cối xay gió.
Phần 2: Tiếp theo đến “ con Rô-xi-a-nết cũng bị toác nửa vai ”. Hành động của mỗi người đối với những chiếc cối xay.
Advertisement
Phần 3. Còn lại. Cuộc bàn tán sau chuyến phưu lưu.
– Năm sự việc chủ yếu:
Đôn Ki-hô-tê cho rằng những chiếc cối xay gió là những tên khổng lồ, quyết tâm đánh nhau với chúng để bảo vệ chính nghĩa.
Xan-chô Pan-xa nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Đôn Ki-hô-tê thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-chô Pan-xa.
Xan-chô Pan-xa hét lên khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi hắn lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Đôn Ki-hô-tê không thèm ăn uống mà nhớ tới tình nương. Còn Xan-chô Pan-xa thì ăn uống no say rồi đi ngủ.
– Tính cách của lão hiệp sĩ và bác giám mã được bộc lộ:
Lão hiệp sĩ: ảo tưởng, điên rồ và phi thực tế
Bác giám mã: tỉnh táo, thực dụng
Câu 2.
Những nét hay và nét dở trong tính cách của nhân vật hiệp sĩ Đôn Ki-hô-tê.
– Nét hay: Lí tưởng hành hiệp trượng nghĩa, cao đẹp.
– Nét dở: Mê muội, hoang tưởng vì đọc quá nhiều truyện tiểu thuyết hiệp sĩ:
Thúc con ngựa Rô-xi-na-tê xông lên, không để ý tới lời khuyên của Xan-chô Pan-xa.
Thét lên rất lớn: “Chớ có chạy trốn lũ hèn mạt nhát gan kia, bởi duy nhất chỉ có một hiệp sĩ tấn công bọn mi đây”; “Dù cho bọn ngươi… đền tội”.
Cầu mong nàng Đuyu-xi-nê-a của mình cứu giúp trong lúc nguy nan này.
Rồi lấy khiên che kín thân, tay lăm lăm ngọn giáo, thúc ngựa phi thẳng về phía chiếc cối xay gió gần nhất, đâm mũi giáo vào cánh quạt đang quay khiến nó gãy tan tành.
Cả người và ngựa đều bị kéo theo văng ra xa. Khi bị thương nhưng vẫn không rên rỉ, kêu than.
Câu 3.
Nhân vật Xan-chô Pan-xa cũng bộc lộ cả mặt tốt và xấu.
– Mặt tốt: Tỉnh táo, có khát vọng chính đáng (khát vọng làm giàu) và ra sức khuyên can Đôn Ki-hô-tê khi lão định đánh nhau với cối xay gió.
– Mặt xấu: Nhát gan, ích kỉ, thực dụng.
Ngạc nhiên khi thấy Đôn Ki-hô-tê nói về những gã khổng lồ (Những tên khổng lồ nào cơ?).
Tỉnh táo nói với Đôn Ki-hô-tê rằng không có tên khổng lồ nào mà chỉ là những chiếc cối xay gió.
Hét lên khuyên can khi Đôn Ki-hô-tê lao vào những chiếc cối xay gió để đánh nhau.
Câu 4.
Đặc điểm
Đôn-ki-hô-tê
Xan-chô Pan-xa
Xuất thân
Quý tộc nghèo
Nông dân
Ngoại hình
Gầy gò, cao lênh khênh
Lùn, béo
Phương tiện
Ngựa
Lừa
Lí tưởng
Hành hiệp trượng nghĩa, cứu giúp người vô tội
Cai trị một hòn đảo (quyền lực, của cải)
Hành động
Đánh nhau với cối xay gió
Khuyên can Đôn-ki-hô-tê đó không phải là tên khổng lồ mà là cối xay gió.
Tính cách
Mơ mộng, hão huyền nhưng cũng rất dũng cảm.
Tỉnh táo, tham lam, hèn nhát.
Soạn Bài Nghĩa Tường Minh Và Hàm Ý Soạn Văn 9 Tập 2 Bài 24 (Trang 74)
Soạn bài Nghĩa tường minh và hàm ý
Tài liệu nhằm giúp học sinh lớp 9 chuẩn bị bài nhanh chóng và đầy đủ hơn. Mời tham khảo nội dung chi tiết bên dưới.
Soạn bài Nghĩa tường minh và hàm ý I. Phân biệt nghĩa tường minh và hàm ýĐọc đoạn trích trong SGK và trả lời câu hỏi:
1. Qua câu “Trời ơi, chỉ còn có năm phút!”, em hiểu anh thanh niên muốn nói điều gì? Vì sao anh không nói thẳng điều đó với họa sĩ và cô gái?
2. Câu nói thứ hai của anh thanh niên có ẩn ý gì không?
Gợi ý:
1. Câu nói không chỉ thông báo về thời gian mà còn ngụ ý bộc lộ sự tiếc nuối.
2. Câu nói thứ hai của anh thanh niên không có ẩn ý gì.
Tổng kết: Nghĩa tường minh là phần thông báo được diễn ra trực tiếp bằng từ ngữ trong câu. Hàm ý là phần thông báo tuy không được diễn đạt trực tiếp bằng từ ngữ trong câu nhưng có thể suy ra từ những từ ngữ ấy.
II. Luyện tậpCâu 1. Đọc lại đoạn trích đã dẫn ở đoạn I và cho biết:
a. Câu nào cho thấy họa sĩ cũng chưa muốn chia tay anh thanh niên? Từ ngữ nào giúp em nhận ra điều ấy?
Gợi ý:
a.
Câu cho thấy họa sĩ cũng chưa muốn chia tay anh thanh niên: Nhà họa sĩ tặc lưỡi đứng dậy.
Từ ngữ giúp em nhận ra điều ấy: tặc lưỡi.
b.
Những từ ngữ miêu tả thái độ của cô gái trong câu cuối đoạn văn: mặt đỏ ửng, nhận lại chiếc khăn, vội vã quay đi.
Thái độ ấy giúp em đoán ra cô kĩ sư đang bối rối, ngượng ngùng. Cô đã kín đáo để lại chiếc khăn mùi soa làm kỉ vật cho anh thanh niên, nhưng anh lại không hiểu được điều đó.
Câu 2. Hãy cho biết hàm ý của câu in đậm trong đoạn trích sau:
Bác lái xe dắt anh ta lại chỗ nhà hội họa và cô gái:
(Nguyễn Thành Long, Lặng lẽ Sa Pa)
Gợi ý:
Hàm ý của câu nói: Ông họa sĩ rất thích uống nước chè, nhưng do khởi hành sớm nên chưa kịp thưởng thức.
Câu 3. Tìm câu chứa hàm ý trong đoạn trích sau và cho biết nội dung của hàm ý:
Mẹ nó đâm nổi giận quơ đũa bếp dọa đánh, nó phải gọi nhưng lại nói trổng:
– Vô ăn cơm!
Anh Sáu vẫn ngồi im, giả vờ không nghe, chờ nó gọi “Ba vô ăn cơm”. Con bé cứ đứng trong bếp nói vọng ra:
– Cơm chín rồi!
Anh cũng không quay lại.
(Nguyễn Quang Sáng, Chiếc lược ngà)
Câu chứa hàm ý: Cơm chín rồi!
Nội dung hàm ý: Bé Thu muốn ông Sáu hãy vào ăn cơm.
Câu 4. Đọc các đoạn trích trong SGK (trích từ truyện ngắn Làng của Kim Lân), cho biết những câu in đậm có phải là câu chứa hàm ý không. Vì sao?
a. Có người hỏi:
– Sao bảo làng Chợ Dầu tinh thần lắm cơ mà?..
– Ấy thế mà bây giờ đổ đốn ra thế đấy!
Advertisement
Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng, vươn vai nói to:
– Hà, nắng gớm, về nào…
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người mới tản cư lên ấy vẫn dõi theo.
b.
– Này, thầy nó ạ.
Ông Hai nằm rũ ra ở trên giường không nói gì.
– Thầy nó ngủ rồi à?
– Gì?
Ông lão khẽ nhúc nhích.
– Tôi thấy người ta đồn…
Ông lão gắt lên:
– Biết rồi!
Bà Hai nín bặt. Gian nhà lặng đi, hiu hắt.
Gợi ý:
Cập nhật thông tin chi tiết về Soạn Bài Cố Hương Soạn Văn 9 Tập 1 Bài 16 (Trang 207) trên website Gqut.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!